Chi tiết tin - Sở Khoa học và Công nghệ

 

Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo – Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai
Tin tức - Sự kiện: Kết quả nghiên cứu triển khai

Ngày đăng: 18-01-2024

Nghiên cứu chọn tạo giống dừa cho các tỉnh phía Nam

Đối với canh tác cây dừa, nhất là trong điều kiện xâm nhập mặn, việc chọn giống tốt và có khả năng thích nghi cao với môi trường bất lợi là một trong những giải pháp quan trọng nhất.

Trong điều kiện biến đổi khí hậu hiện nay, Việt Nam có khoảng trên 1 triệu hecta đất bị xâm nhập mặn, trong đó khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long là một trong hai đồng bằng lớn bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Dưới tác động của xâm nhập mặn, nhiều cây trồng đã bị ảnh hưởng nặng nề, trong đó có cây dừa với các biểu hiện như giảm số lượng hoa cái, giảm khả năng đậu quả và năng suất ở mức thấp hơn trung bình tiềm năng của giống. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ảnh hưởng của độ mặn nước tưới trong mương vườn dừa đã tác động đến sinh trưởng và phát triển của cây dừa với độ mặn cao nhất trong mùa khô là 13,8‰ tại tỉnh Bến Tre và 6,8‰ tại tỉnh Tiền Giang.

Đối với canh tác cây dừa, nhất là trong điều kiện xâm nhập mặn, việc chọn giống tốt và có khả năng thích nghi cao với môi trường bất lợi là một trong những giải pháp quan trọng trong sản xuất. Do đó, các nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có dầu đã đề xuất và được Bộ Công Thương phê duyệt thực hiện đề tài “Nghiên cứu chọn tạo giống dừa cho các tỉnh phía Nam” trong thời gian từ năm 2019 đến năm 2023. Đề tài do ThS. Thái Nguyễn Quỳnh Thư làm chủ nhiệm.

Đề tài được thực hiện với các nội dung chính bao gồm: đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của giống dừa lai sáp thơm thế hệ F1; đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của giống dừa lai sáp thơm thế hệ F2; sản xuất 5 đến 10 cây dừa sáp thơm bằng phương pháp nuôi cấy phôi (sử dụng quả giống được xác định là vừa sáp vừa có mùi thơm lá dứa để nuôi cấy phôi); công nhận cây đầu dòng dừa Ta/Dâu chịu mặn. Bên cạnh đó, đề tài cũng hướng đến nhiệm vụ xây dựng quy trình kỹ thuật canh tác thời kỳ kiến thiết cơ bản cho dòng dừa Ta/Dâu chịu mặn; xây dựng mô hình sản xuất trồng dòng dừa Ta/Dâu chịu mặn. Đồng thời, sản xuất cây giống dừa Ta/Dâu chịu mặn.

Cây dừa sáp thơm tại phòng thí nghiệm (Ảnh: Nhóm nghiên cứu)

Theo đánh giá, việc triển khai các thí nghiệm trong nhiệm vụ như đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của giống dừa lai sáp thơm thế hệ F1 và F2 và sản xuất giống dừa sáp thơm bằng phương pháp nuôi cấy phôi là cần thiết, nhằm xây dựng dữ liệu khoa học và duy trì đặc tính quý của giống dừa sáp thơm. Bên cạnh đó, việc đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của các vườn dừa chịu mặn, nghiên cứu chế độ bón phân và phòng trừ bọ dừa cho cây dừa là rất quan trọng, nhằm xác định những vườn dừa và cây dừa đạt năng suất cao, chất lượng tốt và phù hợp với tiêu chuẩn làm cây dừa mẹ.

Ngoài ra, việc sản xuất nguồn giống chất lượng cao, có khả năng chịu mặn và thích nghi tốt trong điều kiện nhiễm mặn nhằm phục vụ cho công tác tái cơ cấu vùng trồng dừa trong tình hình mới. Thông qua đó, việc khảo sát và đánh giá sinh trưởng kết hợp xây dựng mô hình sản xuất trồng dòng dừa chịu mặn góp phần tạo dữ liệu khoa học về sinh trưởng của cây dừa chịu mặn trong thời kỳ kiến thiết cơ bản và góp phần phát triển kinh tế cho hộ nông dân trong thời kỳ kinh doanh.

Những kết quả nổi bật

Sau 5 năm triển khai và thực hiện, đề tài đã đạt được nhiều kết quả nổi bật:

Một là, đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển tốt của giống dừa lai sáp thơm thế hệ F1 trồng tại tỉnh Bến Tre, Tiền Giang và Tây Ninh. Năng suất của giống dừa lai sáp thơm lai tạo trong nước thế hệ F1 tại thời điểm kết thúc theo dõi ở tỉnh Bến Tre là 45,6 quả/cây/năm, tỉnh Tiền Giang là 83,3 quả/cây/năm và tỉnh Tây Ninh là 85,7 quả/cây/năm.

Cây dừa sáp thơm F2 tại Tây Ninh (Ảnh: Nhóm nghiên cứu)

Hai là, đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển của giống dừa lai sáp thơm thế hệ F2. Cụ thể, giống dừa lai sáp thơm thế hệ F2 trồng tại tỉnh Bến Tre, Tiền Giang và Tây Ninh có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt sau 5 năm trồng. Các chỉ tiêu về số hoa cái, tỉ lệ đậu quả và số quả tăng dần nhưng chưa ổn định. Năng suất của giống dừa lai sáp thơm thế hệ F2 tại tỉnh Bến Tre thời điểm kết thúc theo dõi là 33,0 quả/cây/năm, tại tỉnh Tiền Giang là 55,9 quả/cây/năm và tại tỉnh Tây Ninh là 45,2 quả/cây/năm.

Ba là, sản xuất cây dừa sáp thơm bằng phương pháp nuôi cấy phôi. Sau 5 năm thực hiện thu thập quả dừa vừa sáp vừa thơm mùi lá dứa, đề tài đã nhân giống được 18 cây giống dừa sáp thơm bằng phương pháp nuôi cấy phôi. Đến nay, đã triển khai 5 đợt trồng cây dừa sáp thơm trong giai đoạn từ tháng 10/2019 đến tháng 6/2023 tại tỉnh Tây Ninh, các cây đều sinh trưởng, phát triển tốt và thích nghi tốt với điều kiện sinh thái trên nền đất xám. Các cây trồng trong năm 2019 đã bắt đầu có hoa sau 40 tháng trồng.

Bốn là, công nhận cây đầu dòng chịu mặn. Theo đó, đề tài đã công nhận được 38 cây dừa mẹ trên giống dừa Ta xanh tại huyện Bình Đại (Ấp Lộc Thới, xã Lộc Thuận, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre) có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt trong điều kiện xâm nhập. Quyết định công nhận cây dừa mẹ số 163/QĐ-SNN ngày 08 tháng 3 năm 2023 của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bến Tre.

Năm là, xây dựng quy trình kỹ thuật canh tác thời kỳ kiến thiết cơ bản cho dòng dừa Ta chịu mặn. Sau thí nghiệm về liều lượng phân bón và bảo vệ thực vật cho giống dừa Ta/Dâu chịu mặn thời kỳ kiến cơ bản đã xác định được số lần bón và liều lượng phân lân cho giống dừa Ta/Dâu trong điều kiện xâm nhập mặn trồng tại huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre và huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang là bón phân 4 lần/năm với liều lượng phân lân trong giai đoạn 4 đến 5 năm tuổi là 60kg P2O5/ha, từ 6 đến 7 năm tuổi là 65 kg P2O5/ha và từ 8 năm tuổi là 70kg P2O5/ha.

Mô hình dừa tại huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang (Ảnh: Nhóm nghiên cứu)

Đối với việc khảo sát các hoạt chất phòng trừ bọ dừa cho thấy áp dụng hoạt chất Imidacloprid (Sahara 25WP) trong phòng trừ bọ dừa trên giống dừa Ta 6 năm tuổi là phù hợp nhằm hạn chế và kiểm soát quần thể bọ dừa, qua đó cải thiện sự sinh trưởng của lá chét và năng suất cây dừa trong giai đoạn cuối của thời kỳ kiến thiết cơ bản. Do đó, đề tai đã xây dựng quy trình kỹ thuật canh tác cây dừa trong điều kiện xâm nhập mặn và đã được ban hành theo quyết định số 72/QĐ-VD ngày 27 tháng 11 năm 2023 của Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có dầu.

Sáu là, sản xuất cây giống dừa Ta chịu mặn. Thông qua việc tuyển chọn vườn và chọn cây dừa đạt tiêu chuẩn cây dừa mẹ trong điều kiện xâm nhập mặn, đề tài đã sản xuất được 631 cây giống dừa Ta chịu mặn.

Bảy là, xây dựng mô hình sản xuất trồng dòng dừa Ta chịu mặn. Dựa trên các cây dừa giống chịu mặn, đề tài đã chuyển giao cho 6 hộ nông dân 480 cây dừa giống và trồng tổng diện tích là 3,1 ha tại huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang và huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Các cây dừa được trồng bước đầu đã thích nghi với điều kiện xâm nhập mặn và sinh trưởng tốt.

Cây dừa sáp thơm 3 năm tuổi (Ảnh: Nhóm nghiên cứu)

Trong thời gian tới, Viện Nghiên cứu Dầu và Cây có dầu sẽ tiếp tục theo dõi và đánh giá sự sinh trưởng và phát triển của giống dừa lai sáp thơm lai tạo trong nước thế hệ F1 và giống dừa sáp thơm thế hệ F2. Tiếp tục thực hiện nhân giống và đánh giá sự sinh trưởng, phát triển, năng suất và khả năng thích nghi của giống dừa lai sáp thơm trong thời kỳ kinh doanh. 

Đồng thời, tiếp tục theo dõi và thực hiện thí nghiệm về phân lân cho cây dừa trong giai đoạn tiếp theo để đáp ứng cho quá trình sinh trưởng và phát triển của cây đến thời kỳ ra quả ổn định; cũng như tiếp tục thực hiện nhân giống từ vườn dừa đạt tiêu chuẩn cây dừa mẹ để đáp ứng nhu cầu cung cấp giống dừa có khả năng chịu mặn cho tỉnh Bến Tre, Tiền Giang và các tỉnh lân cận…” chủ nhiệm đề tài ThS. Thái Nguyễn Quỳnh Thư cho biết.
    

Cây dừa (Cocos nucifera L.) là cây trồng phổ biến tại Việt Nam với diện tích gần 170 nghìn hecta và sản lượng gần 1,9 nghìn tấn (FAOSTAT, 2023), được trồng nhiều nhất tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long và Duyên hải Nam Trung Bộ. Trong đó, Bến Tre và Tiền Giang là hai tỉnh sản xuất dừa lớn của khu vực phía Nam nói riêng và cả nước nói chung với diện tích và sản lượng năm 2022 lần lượt là 72.872 ha, 21.651 ha và 686.279 tấn, 225.065 tấn (Cục Thống kê tỉnh Bến Tre và Tiền Giang, 2023).

https://khcncongthuong.vn/

LỊCH CÔNG TÁC TUẦN

Chuyển giao quy trình và nhân rộng công nghệ sấy tiên tiến trong bảo quản, chế biến, nâng cao giá trị dược liệu, nông sản địa phương

Thống kê truy cập
Số người online: 2
Hôm nay: 1475
Tổng lượt truy cập: 3.964.646
© TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ QUẢNG TRỊ
Chịu trách nhiệm: Trần Ngọc Lân, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ. Địa chỉ: 204 Hùng Vương, Đông Hà; ĐT: 0233.3550 382. Email: sokhcn@quangtri.gov.vn
Đơn vị vận hành: Trung tâm Nghiên cứu, Chuyển giao công nghệ và Đổi mới sáng tạo.
Ghi rõ nguồn https://sokhcn.quangtri.gov.vn/ khi sử dụng thông tin từ website này!