Chi tiết tin tin tức sự kiện - Sở Khoa học và Công nghệ - Cổng thông tin

Chi tiết tin tin tức sự kiện - Sở Khoa học và Công nghệ

Thứ Hai ngày 23/06/2025

Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số: Đột phá đưa đất nước bước vào kỷ nguyên giàu mạnh, thịnh vượng
Tin tức - Sự kiện: Sở hữu trí tuệ

Ngày đăng: 12-06-2025

Sở hữu trí tuệ: Điểm tựa cho kinh tế tư nhân

Hành trình phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam gắn liền với những thăng trầm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.

Hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh sử dụng công cụ sở hữu trí tuệ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ảnh: TTXVN

Với bất cứ ai tìm mua sơn dầu ở Việt Nam vào những năm 1920, có lẽ lựa chọn đầu tiên của họ là sơn Gecko của ông Nguyễn Sơn Hà - một trong những doanh nhân hàng đầu của Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc, được coi là “ông tổ” ngành sơn dầu Việt Nam. Dù “sinh sau đẻ muộn”, các sản phẩm sơn Gecko vẫn cạnh tranh được với những hãng ngoại nhập trên thị trường nhờ chất lượng không hề thua kém và giá thành phải chăng. Vào đầu thế kỷ 20, Gecko trở thành thương hiệu sơn nổi tiếng trên khắp cả nước và khu vực Đông Dương, có đại lý độc quyền ở Phnom Penh, Bangkok và cả trên đất Pháp.

Việc phát triển những doanh nghiệp như vậy là mục tiêu mà bất cứ quốc gia nào cũng khao khát. Bởi lẽ, doanh nghiệp là một trong những nhân tố quan trọng góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh. Do vậy, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đặt ra mục tiêu đến năm 2030, phấn đấu có hai triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân. Ngoài ra, phải có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

Cũng giống như ươm mầm những cây xanh, các doanh nghiệp chỉ có thể “bám rễ” và phát triển “khỏe mạnh” khi gặp môi trường thuận lợi. Cụ thể, đó phải là môi trường kinh doanh có thủ tục thông thoáng, minh bạch, doanh nghiệp có thể nhận được sự hỗ trợ cần thiết, và đặc biệt, họ không phải lo lắng về nguy cơ đánh cắp tài sản trí tuệ. Nghị quyết 68 đã chú ý tới điều này. Để tạo ra môi trường lành mạnh cho kinh tế tư nhân, Nghị quyết yêu cầu rà soát, hoàn thiện và thực thi hiệu quả quy định pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu tài sản, trong đó có quyền sở hữu trí tuệ và tài sản vô hình; có chính sách hỗ trợ định giá, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nước, hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân đăng ký quyền sở hữu trí tuệ ở nước ngoài và các tổ chức quốc tế; có chế tài nghiêm khắc đối với hành vi vi phạm về sở hữu trí tuệ, nhất là vi phạm trên không gian thương mại điện tử. Để tạo thuận lợi cho xác lập quyền sở hữu trí tuệ, Nghị quyết cũng yêu cầu bảo đảm thực hiện trực tuyến toàn trình thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp, cắt giảm tối đa thời gian thực hiện thủ tục yêu cầu cấp quyền sở hữu trí tuệ, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế.

Sự ra đời của Nghị quyết 68 được kỳ vọng sẽ góp phần “mở ra một chương mới” đầy hy vọng cho Việt Nam. Sở hữu trí tuệ ở đâu trong bước ngoặt này? “Nếu xem khu vực kinh tế tư nhân là đòn bẩy của một Việt Nam thịnh vượng thì quyền sở hữu trí tuệ xứng đáng được xem là một trong những trụ đỡ quan trọng của đòn bẩy ấy”, ông Nguyễn Trần Hải Đăng, Trưởng phòng Pháp chế, Trung tâm Nghiên cứu công nghệ và Sở hữu trí tuệ CIPTEK, nhận xét trên Tạp chí Kinh tế Sài Gòn.

Hành trình thăng trầm

Không phải lúc nào vai trò của sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế cũng được nhìn nhận một cách đúng đắn như ở Nghị quyết 68. Đây là điều từng xảy trong lần cải tạo công thương miền Bắc giai đoạn 1958-1960. Giữa vô vàn nguy cơ đe dọa đất nước Việt Nam non trẻ, mục tiêu bấy giờ không chỉ là tái thiết đất nước, phát triển kinh tế mà còn phải củng cố tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tẩy chay tất cả những gì “gắn mác” tư bản chủ nghĩa. Hưởng ứng chính sách này, hàng loạt doanh nghiệp đã bị quốc hữu hóa. Kinh tế tư nhân gần như bị xóa bỏ ở Việt Nam, nhường chỗ cho khối kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước.

Việc loại bỏ kinh tế tư nhân không chỉ kéo lùi kinh tế đất nước mà còn dẫn đến những mất mát lớn trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Hàng loạt thương hiệu Việt được dày công xây dựng, một thời lừng lẫy khắp Đông Dương dần trở thành dĩ vãng. Chẳng mấy ai còn nhớ đến hãng sơn Gecko từng thống lĩnh thị trường sơn trong nước và khu vực với hàng loạt sản phẩm sơn Résistanco A, Résistanco B dùng cho sơn xe đạp, Durolac để sơn ô tô, Ideal để sơn tường… Tầm quan trọng của sở hữu trí tuệ cũng như thương hiệu không phải là điều xa lạ ngày nay, song bấy giờ, không mấy ai nghĩ rằng đó là những thứ có giá trị hơn cả tài sản vật chất.

Những “vết xe đổ” vẫn tiếp tục trong quá trình cải cách kinh tế sau khi thống nhất đất nước năm 1975. Một trong những thương hiệu cũng chung số phận quốc hữu hóa và dần mai một là “xà bông Cô Ba” - thương hiệu xà phòng tắm gội đầu tiên của người Việt Nam. Thực ra, trên hộp xà bông không có chữ “Cô Ba” mà có hình một cô gái, người dùng quen gọi là “cô Ba”, dần trở thành thương hiệu gắn liền với sản phẩm này. “Xà bông Cô Ba” do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932, từng đánh bại thương hiệu xà bông của Pháp để chiếm lĩnh thị trường Việt Nam, thậm chí còn xuất khẩu sang các nước Đông Dương, Hồng Kông và châu Phi.

Giá trị của tài sản trí tuệ cũng tương ứng với mức độ đầu tư công sức và thời gian. Giống như con người “mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”, việc xây dựng một thương hiệu khó hơn rất nhiều so với mất đi. Sau năm 1975, công ty sản xuất xà bông của ông Trương Văn Bền trở thành nhà máy hợp doanh xà bông Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ. Đến năm 1995, Bộ Công nghiệp nhẹ hợp tác, liên doanh với Tập đoàn Procter & Gamble (P&G), đổi tên nhà máy thành Công ty CP Sản xuất thương mại Phương Đông. Tuy nhiên, trước sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường, thương hiệu “xà bông Cô Ba” dần rơi vào quên lãng, dù vẫn đang được bán trên thị trường.

Giữabối cảnh ấy, số phận của kinh tế tư nhân gắn liền với sở hữu trí tuệ. Khái niệm kinh tế tư nhân gần như biến mất trong mọi văn bản, chính sách,trong khi đó khái niệm sở hữu trí tuệ vẫn chưa xuất hiện. Câu chuyện sở hữu trí tuệ chỉ manh nha qua những phong trào sáng kiến - cải tiến kỹ thuật cách đây hơn 60 năm. Đến đầu những năm 1970, khi các phong trào phát triển mạnh, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước đã thành lập Phòng Sáng chế phát minh để phụ trách hoạt động này. Sau đó, Phòng Sáng chế phát minh đã đề xuất một số kiến nghị mới về công tác sáng chế - phát minh, trong đó nhấn mạnh vào vai trò quan trọng của hoạt động sáng chế trên thế giới và việc “đã đến lúc nước ta phải ban hành Luật Sáng chế”.

Từ năm 1980, Phòng Sáng chế phát minh đã soạn thảo một văn bản quy định về bảo hộ sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa, được Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước trình Hội đồng Chính phủ, ban hành Nghị định số 31/CP ngày 23/01/1981 kèm theo Điều lệ về sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và sáng chế. Lần đầu tiên, ngoài những quy định về chế độ khen thưởng hay tổ chức chỉ đạo hoạt động sáng kiến như trước đây, Nghị định 31/CP đã đề cập đến việc bảo hộ sáng chế - một trong những đối tượng quan trọng nhất trong số các đối tượng sở hữu công nghiệp.

Những bước tiến mới

Những manh nha thay đổi trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ có lẽ là dấu hiệu mơ hồ của những bước chuyển lớn hơn của Việt Nam. Đó là chính sách đổi mới năm 1986. Sau thất bại của các chính sách thời bao cấp, Việt Nam đã tiến hành “cởi trói” nền kinh tế, chuyển sang xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm đầu sau khi thực hiện đổi mới, các khoản đầu tư nước ngoài liên tục đổ vào đã giúp nền kinh tế đi lên. Vốn đầu tư nước ngoài tăng dần qua các năm, từ mức gần như bằng 0 vào cuối những năm 80 lên hơn 33 tỷ USD vào những năm 1990.

Tuy nhiên, những “lỗ hổng” về sở hữu trí tuệ đã kéo lùi quá trình đổi mới kinh tế. “Đến năm 1997, những con số đầy hứa hẹn đã giảm mạnh khi các nhà đầu tư nước ngoài rút khỏi thị trường Việt Nam - một phần do thiệt hại kinh tế vì nạn xâm phạm bản quyền. Các công ty trong nước cũng chịu nhiều thiệt hại. Việc thiếu vốn đầu tư đã thu hẹp thị trường, đi ngược lại mục tiêu cải cách kinh tế của Việt Nam cũng như cản trở quá trình tham gia vào thị trường toàn cầu”, theo một công bố về tình trạng xâm phạm bản quyền ở Việt Nam của tác giả Julie Siefkas trên tạp chí Florida Journal of International Law vào năm 2002. “Nhiều nhà đầu tư trong và ngoài đã từ chối tham gia quá trình đổi mới nếu quyền sở hữu trí tuệcủa họ không được bảo hộ một cách hiệu quả”.

“Một rào cản lớn trong quá trình đổi mới là Chính phủ Việt Nam không ban hành và thực thi các chính sách về sở hữu trí tuệ một cách hiệu quả. Những hạn chế trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đã ngăn cản nhiều cá nhân và doanh nghiệp phương Tây đầu tư và giao dịch với Việt Nam”, theo một công bố của tác giả Rachel L. Nass trên Brooklyn Journal of International Law. “Quá trình đổi mới khó có thể thành công nếu không có một hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hiệu quả”.

Sau quá trình đổi mới, kinh tế tư nhân dần trỗi dậy, song hành cùng sở hữu trí tuệ. “Một số chính sách đổi mới chưa thành công về mặt kinh tế đã thúc đẩy Việt Nam nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Tuy nhiên, WTO yêu cầu các quốc gia thành viên phải đáp ứng hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại về quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS)”, Rachel L. Nass nhận xét. Đây sẽ là nhiệm vụ đầy thách thức với một quốc gia vẫn còn chập chững trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ như Việt Nam. Tuy nhiên, “việc siết chặt bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại một quốc gia đang phát triển như Việt Nam sẽ góp phần thúc đẩy sự đổi mới, tạo ra các lợi ích trong lâu dài”.

Hành trình phát triển sở hữu trí tuệ ở Việt Nam gắn liền với quá trình thay đổi quan điểm về kinh tế tư nhân. Năm 2003, Cục Sở hữu công nghiệp - trước đây là Cục Sáng chế, đổi tên thành Cục Sở hữu trí tuệ. Việc đổi tên nhiều lần như vậy không phải là ngẫu nhiên. “Ban đầu tôi hỏi ý kiến của các chuyên gia, rằng có nên dùng từ sở hữu trí tuệ hay không, họ bảo là tốt quá, nhưng sợ không được, vì người ta vẫn hơi ngại dùng từ sở hữu, khi đó chỉ có sở hữu chung thôi chứ làm gì có sở hữu riêng. Do vậy, quá trình chuyển đổi phải diễn ra dần dần. Lúc gọi là sở hữu công nghiệp, có người còn ‘vặn’ tôi là sao không có sở hữu nông nghiệp?”, ông An Khang, Cục trưởng đầu tiên của Cục Sáng chế, nhớ lại những ngày nêu ra những khái niệm sơ khai về sở hữu trí tuệ.

Để chuẩn bị gia nhập WTO, năm 2005, luật sở hữu trí tuệ đã ra đời. “Là một phần trong nỗ lực gia nhập WTO, Việt Nam đã hợp nhất mê cung rắc rối các quy định về sở hữu trí tuệ trong một văn bản luật. Có lúc, quá trình soạn thảo luật sở hữu trí tuệ diễn ra nhanh đến mức những người dịch sang bản tiếng Anh cũng không theo kịp”, theo công bố của tác giả Ha Thanh Nguyen và cộng sự trên Geoforum. “Quá trình soạn thảo và tham vấn ý kiến cho các đối tượng trong luật - từ quyền tác giả, sở hữu công nghiệp, giống cây trồng - mất chưa đầy 24 tháng”. Đây là một bước tiến lớn trong việc bảo hộ toàn diện các đối tượng sở hữu trí tuệ, góp phần mở ra những “cánh cửa mới” cho kinh tế Việt Nam.

https://khoahocphattrien.vn/chinh-sach/so-huu-tri-tue-diem-tua-cho-kinh-te-tu-nhan/20250605081813284p1c785.htm

Chuyển giao quy trình và nhân rộng công nghệ sấy tiên tiến trong bảo quản, chế biến, nâng cao giá trị dược liệu, nông sản địa phương

 

Thống kê truy cập
Số người online: 1
Hôm nay: 223
Tổng lượt truy cập: 6.899.901
© TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ QUẢNG TRỊ
Chịu trách nhiệm: Trần Ngọc Lân, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ. Địa chỉ: 204 Hùng Vương, Đông Hà; ĐT: 0233.3550 382. Email: sokhcn@quangtri.gov.vn
Đơn vị vận hành: Trung tâm Nghiên cứu, Chuyển giao công nghệ và Đổi mới sáng tạo.
Giấy phép hoạt động số 112/GP-TTĐT do Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Trị cấp ngày 09/4/2025
Ghi rõ nguồn https://sokhcn.quangtri.gov.vn/ khi sử dụng thông tin từ website này!