Nâng cao đạo đức công vụ, đảng viên
TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ
Đạo đức công vụ là một phạm trù tương đối rộng, bao hàm đạo đức, lối sống, cách xử sự của cán bộ, công chức, đảng viên không chỉ trong các mối quan hệ xã hội thông thường mà còn trong phạm vi thực hiện nhiệm vụ công, trong giao dịch hành chính với tổ chức, công dân.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, công chức phải đối mặt với nhiều vấn đề mà trước đây không có. Những vấn đề như: tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp, môi trường làm việc đều được đem ra so sánh với khu vực tư nhân và sự chênh lệch giữa hai khu vực cũng làm cho tư duy về giá trị công vụ, công chức thay đổi. Hiện tượng “chảy máu chất xám” từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân thể hiện sự thay đổi nhận thức giá trị công vụ.
Để hạn chế những mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động đến đạo đức công chức, đạo đức của người Đảng viên cần có nền tảng đạo đức công chức vững chắc. Nền tảng này cần phải được xây dựng dựa trên hệ thống pháp luật cần thiết để bảo đảm cho các chuẩn mực đạo đức được thi hành và những tiêu chí để đánh giá công chức mang tính truyền thống như trung thực, thẳng thắn, không vụ lợi: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Đạo đức công vụ được đánh giá dựa trên hai tiêu chí sau:
Thứ nhất, đạo đức của bản thân người công chức. Chủ thể đạo đức công vụ là người công chức. Với tư cách là công dân, người công chức phải mang trong mình những nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội mà trong đó họ sống và hoạt động.
Thứ hai, dưới góc độ đạo đức nghề nghiệp. Với tư cách là công chức, họ phải tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực quy định cách ứng xử của người công chức trong hoạt động thực thi công vụ mà không bao giờ được vi phạm đạo đức của nghề công chức.
Đạo đức công vụ không chỉ dừng lại ở sự nhận thức mà cần phải được pháp luật hóa trong nền công vụ. Nếu thiếu sự pháp luật hóa thì những nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức cũng chỉ là những lời giáo huấn, lý thuyết chung chung, không có sức sống trong thực tế. Nếu như sức mạnh của pháp luật là sự cưỡng chế, bắt buộc thì sức mạnh của đạo đức là niềm tin cá nhân, là truyền thống dân tộc, là sức mạnh của dư luận xã hội. Chính vì vậy, nâng cao nhận thức đạo đức, biến nhận thức đạo đức thành hành vi đạo đức, thành thực tiễn đạo đức là việc làm hết sức cần thiết trong đời sống xã hội của đội ngũ công chức.
Nâng cao đạo đức công vụ là quá trình tác động tích cực, có mục đích của các chủ thể tới đối tượng nhằm làm biến đổi đời sống đạo đức của đội ngũ công chức theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn về mặt nhân cách. Nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ công chức là nâng cao lòng yêu nghề, tinh thần tận tụy với công việc; nâng cao thái độ tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; là thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư trong hoạt động công vụ; là nâng cao chủ nghĩa tập thể, tinh thần hợp tác, tôn trọng pháp luật, tôn trọng đồng nghiệp trong thực thi công vụ. Nâng cao đạo đức công vụ cho công chức có tầm quan trọng đặc biệt bởi:
Một là, đội ngũ công chức có vai trò và vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng dân tộc. Trong đội ngũ công chức, một bộ phận không nhỏ là đảng viên, là cán bộ lãnh đạo, quản lý, là người tham gia hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đội ngũ công chức có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển đất nước; trong việc bảo vệ pháp luật và công lý, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xã hội, chống lại các hành vi vi phạm pháp luật, tùy tiện, vô nguyên tắc. Trong thực thi công vụ, người công chức phải chú tâm, công bằng, không thiên vị. Đội ngũ công chức còn là người đóng vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và các tiêu cực khác để làm cho bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn.
Hai là, một bộ phận công chức chưa nêu cao năng lực phẩm chất đạo đức cách mạng, tham nhũng lãng phí nghiêm trọng. Đại bộ phận công chức có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận công chức yếu cả về năng lực và phẩm chất; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí. Đội ngũ cán bộ công chức yếu kém cần xóa bỏ sớm để đội ngũ công chức thực sự trở thành “công bộc” của dân, chăm lo phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân.
Ba là, bối cảnh quốc tế và khu vực thay đổi đòi hỏi càng phải nâng cao chất lượng đạo đức công vụ để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới. Trong bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường, những tác động tích cực và tiêu cực, thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức, v.v. đan xen hết sức phức tạp, nhiệm vụ chính trị mới nặng nề, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đào tạo lực lượng lao động có chất lượng cao; xây dựng được đội ngũ công chức ngang tầm phục vụ sự nghiệp cách mạng. Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ.
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY
Hiện nay, Việt Nam có 2,8 triệu công chức và 5,3 triệu Đảng viên. Nhìn chung, cán bộ công chức, đảng viên Việt Nam có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; có thái độ tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, được nhân dân tin tưởng; thực hiện tốt lời dạy luôn luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tập thể; có lòng yêu nghề, tận tụy với công việc; tôn trọng đồng nghiệp, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên Việt Nam về cơ bản đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ. Công chức, đảng viên tham gia công tác quản lý, lãnh đạo các cấp phát huy tốt vai trò và khả năng của mình, không ngừng nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý, góp phần quan trọng vào sự đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị.
Bên cạnh những ưu điểm đã được khẳng định, vẫn còn một bộ phận cán bộ đảng viên yếu cả về năng lực và phẩm chất; quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Trong đó, có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý và một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc.
Có nhiều vụ việc cán bộ, công chức, đảng viên vi phạm đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp gây hậu quả nghiêm trọng, như một số vụ công chức kiểm lâm, viên chức làm công tác quản lý, bảo vệ rừng lơ là, thiếu trách nhiệm để cho "lâm tặc" phá rừng trong nhiều năm; một số viên chức ngành Y tế lợi dụng vị trí việc làm vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp; một số cán bộ dự án "rút ruột" công trình xây dựng… Bên cạnh đó, tình trạng cán bộ, công chức, đảng viên bớt xén thời gian làm việc, đùn đẩy trách nhiệm, giải quyết công việc sai quy định, hướng dẫn, giải thích công việc cho người dân một cách lòng vòng, khó hiểu, thái độ làm việc hời hợt, thiếu nhiệt tình, thiếu thân thiện trong việc tiếp công dân.
Nguyên nhân của sự suy thoái đạo đức ở một bộ phận công chức, đảng viên là do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, do năng lực, đạo đức của nhiều cán bộ, công chức, đảng viên hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu trong công tác quản lý nhà nước. Một số cán bộ, công chức, đảng viên có năng lực công tác nhưng phẩm chất đạo đức còn hạn chế trong việc thực hiện nhiêm vụ, công vụ gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của bộ máy công quyền.
Thứ hai, lãnh đạo cơ quan chưa thật sự gương mẫu trong vấn đề đạo đức lối sống và trách nhiệm trong công việc. Sự thiếu quan tâm đúng mức cũng như thiếu sự gương mẫu trong công việc và cuộc sống của quan chức lãnh đạo đã tác động tiêu cực đến tư tưởng của cấp dưới trong thực thi nhiệm vụ. Các cơ quan, đơn vị chưa có sự quan tâm đúng mức đối với việc giáo dục tinh thần trách nhiệm, cũng như việc xử lý trách nhiệm đối với các trường hợp vi phạm đạo đức công vụ chưa nghiêm nên chưa thật sự có tính răn đe, làm gương.
Thứ ba, việc ban hành chính sách pháp luật của Nhà nước của các cơ quan chậm, thiếu quyết liệt trong thực thi nên hiệu quả chưa cao. Thiếu những quy định cụ thể trong các đơn vị về trách nhiệm của cán bộ, công chức; cơ chế quản lý, kiểm tra giám sát của tổ chức và thủ trưởng trực tiếp cũng như của nhân dân đối với hoạt động của cán bộ, công chức, đảng viên còn hạn chế, chưa thường xuyên, chưa nghiêm túc và thiếu đồng bộ.
Thứ tư, hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa thường xuyên, mang tính hình thức. Nhiều cán bộ, công chức, đảng viên thiếu nghiêm khắc với bản thân, không thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, chưa nhận thức rõ rằng cán bộ, công chức là đầy tớ của dân, cần hết sức phục vụ nhân dân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TUYỂN CHỌN ĐÁNH GIÁ, BỐ TRÍ VÀ SỬ DỤNG CÁN BỘ
Bước vào thời kỳ mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường, những tác động tích cực và tiêu cực, thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức đan xen hết sức phức tạp, đòi hỏi phải xây dựng được đội ngũ cán bộ công chức, đội ngũ đảng viên có chất lượng, toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp cách mạng, đào tạo được lực lượng lao động có chất lượng cao. Để xây dựng, củng cố và nâng cao ý thức trách nhiệm, đạo đức công vụ và tuân thủ pháp luật, kỷ luật nhà nước của cán bộ, công chức, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với hành vi vi phạm đạo đức công vụ, có cơ chế xử lý nghiêm khắc vi phạm đạo đức công vụ. Đối với công chức, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh là cơ sở để hoàn thiện hệ thống thể chế về đánh giá, giám sát hoạt động của công chức, đặc biệt là cơ chế giám sát trực tiếp từ phía nhân dân. Kết quả đánh giá công chức khách quan, trung thực vừa là cơ sở để tiến hành đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng hay kỷ luật, vừa thúc đẩy vai trò tích cực của công chức trong hoạt động quản lý.
Mặc dù pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ ở Việt Nam đã được quy định trong một số luật liên quan đến công chức, viên chức như: Luật Cán bộ công chức; Luật Viên chức, Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi năm 2018; Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí… Tuy nhiên, chưa xây dựng luật riêng quy định cụ thể về đạo đức công vụ. Do đó, để đáp ứng yêu cầu về tăng cường xây dựng đạo đức công chức, đảng viên trong bối cảnh mới hiện nay, cần nghiên cứu để xây dựng và ban hành Luật Đạo đức công vụ hoặc Luật Đạo đức của công chức. Việc ban hành Luật không những có tác dụng nêu lên các nguyên tắc, chuẩn mực về đạo đức công vụ, mà còn đưa ra những quy định cụ thể về mục đích đạo đức, hành vi đạo đức và công cụ đạo đức trong quá trình cán bộ, công chức, đảng viên tiếp xúc, làm việc với cơ quan, xã hội, doanh nghiệp và người dân. Việc ban hành Luật sẽ tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát việc thực thi đạo đức công vụ.
Có chế tài cụ thể hơn về khen thưởng và xử lý vi phạm kỷ luật đối với cán bộ công chức, đảng viên. Về nguyên tắc, tất cả công chức vi phạm pháp luật không thể ở lại cơ quan hành chính nhà nước vì như vậy sẽ “tạo ra tấm gương xấu” cho xã hội. Kiên quyết xử lý ngay vi phạm chuẩn mực pháp lý về thực thi công vụ; thi hành pháp luật. Đồng thời có cơ chế khen thưởng xứng đáng cho những ai “chấp hành nghiêm chỉnh chuẩn mực pháp lý”, bằng cả vật chất lẫn tinh thần.
Thứ hai, phát huy tính tích cực, chủ động, gương mẫu của công chức, đảng viên trong thực thi công vụ. Nhân tố quyết định đến việc nâng cao đạo đức công vụ cho công chức, đảng viên là hết sức quan trọng được xuất phát từ nhân tố bên trong, từ chủ thể đạo đức (đối tượng được nâng cao) chứ không phải là chủ thể nâng cao. Giáo dục phải lấy người học làm trung tâm thay vì lấy người thầy làm trọng tâm. Do đó, người học phải là chủ thể tích cực, chủ động đối với nhận thức của bản thân dưới sự hướng dẫn của người thầy. Mỗi cán bộ, đảng viên tăng cường tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, đề cao vai trò gương mẫu trong xây dựng và thực hiện xây dựng Đảng về đạo đức. Nâng cao đạo đức cho công chức, đảng viên là công việc thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi sự tham gia tích cực không chỉ của đội ngũ công chức, đảng viên mà của toàn thể nhân dân. Với sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền cũng như toàn xã hội, đạo đức công vụ của đội ngũ công chức, đảng viên Việt Nam sẽ ngày càng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới mà cách mạng đặt ra.
Thứ ba, tăng cường giáo dục đạo đức công vụ cho công chức, đảng viên và đổi mới phương pháp giáo dục đạo đức công vụ. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh, cần tập trung xây dựng đạo đức của đảng viên, coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng; coi trọng đấu tranh phê phán và biểu dương gương sáng về đạo đức. Cốt lõi của giáo dục đạo đức công vụ, đảng viên là giúp công chức hiểu được giá trị của đạo đức công vụ và tiêu chuẩn hành vi trong thực thi công vụ, qua đó khơi dậy động cơ đạo đức và thúc đẩy hành vi đạo đức của cán bộ, công chức, đảng viên. Cần nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của đảng viên. Nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên. Kịp thời biểu dương những điển hình tiên tiến, những tấm gương sáng về đạo đức, lối sống; đấu tranh mạnh mẽ với các biểu hiện lệch lạc và xử lý nghiêm những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống. Thường xuyên bồi dưỡng về đạo đức công vụ; tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng định kỳ cho các đối tượng khác nhau. Việc đào tạo, bồi dưỡng không nặng về lý thuyết, coi trọng hơn thực hành đạo đức công vụ, giúp cho người học có khả năng đưa ra lựa chọn hợp lý trong bối cảnh có sự xung đột giữa lợi ích tư và lợi ích công.
Thứ tư, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện đạo đức công vụ của cán bộ công chức, đảng viên. Đại hội XIII xác định, phải tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng và kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Hoạt động kiểm tra, giám sát về việc thực hiện đạo đức công vụ cần được tiến hành thường xuyên dưới các hình thức báo cáo, kiểm tra đột xuất, lấy ý kiến của người dân… Thông qua kiểm tra, giám sát, lãnh đạo hiểu đạo đức công vụ được thực hiện thế nào, hiệu quả ra sao, còn hạn chế những gì nhằm bổ sung, sửa đổi, ngăn chặn các nội dung sai lệch với việc thực hiện đạo đức công vụ. Xây dựng và thực hiện cơ chế giám sát của nhân dân đối với việc thực hiện đạo đức công vụ nhằm nêu cao tinh thần trách nhiệm của công chức và bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Đại hội XIII nhấn mạnh, phải đổi mới phương pháp, quy trình công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng bảo đảm khách quan, dân chủ, khoa học, chặt chẽ. Tập trung vào cơ chế, biện pháp chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức Đảng và đảng viên; có chế tài để phòng ngừa, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm kỷ luật Đảng.
Thứ năm, đổi mới công tác tuyển chọn đánh giá, bố trí và sử dụng cán bộ. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định, cùng với việc tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ Nhân dân và sự phát triển của đất nước, thì cần có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân. Bởi xây dựng đạo đức công vụ không chỉ dựa vào sự nỗ lực tự giác của mỗi cán bộ, công chức trong phấn đấu, rèn luyện về đức và tài, không chỉ đòi hỏi cần phải đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, mà phải chấn chỉnh tổ chức, gắn chặt với công tác tổ chức, khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ, nhất là khâu tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ (cách dùng người). Dùng người không đúng, không công tâm khách quan, không vì sự nghiệp chung sẽ có hại cho dân, cho nước, sẽ suy yếu văn hóa đạo đức. Vì thế, phải cải cách thể chế, đổi mới công tác cán bộ theo hướng đánh giá đúng cán bộ và sử dụng đúng cán bộ, thực hiện dân chủ hóa trong công tác cán bộ, khắc phục hiện tượng bổ nhiệm và sử dụng cán bộ không theo năng lực, yếu kém về phẩm chất. Đây là giải pháp then chốt về xây dựng đạo đức công vụ ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập.
Đại hội XIII khẳng định,nâng cao đạo đức công vụ, đạo đức Đảng viên là nhiệm vụ lớn trong Đảng là yêu cầu cao nhất nhằm chấn hưng đạo đức công vụ, từ trong từng tổ chức đến cả hệ thống chính trị. Nâng cao đạo đức công vụ của cán bộ công chức, đảng viên là đòi hỏi tất yếu và cần được thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm mang lại giá trị đạo đức, sự hướng thiện của con người, tạo điều kiện cho các giá trị đạo đức phát triển và ngăn ngừa, hạn chế sự sa sút, suy thoái đạo đức. Bồi dưỡng và nâng cao đạo đức công vụ, đảng viên trước hết là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi cán bộ công chức, đảng viên, đồng thời, là sự nỗ lực chung của các tổ chức đoàn thể toàn xã hội. Nâng cao đạo đức công vụ cho công chức, đảng viên là công việc thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi sự tham gia tích cực không chỉ của đội ngũ công chức mà của toàn thể nhân dân. Xây dựng đạo đức không chỉ yêu cầu làm trong sạch Đảng mà còn đáp ứng mong mỏi, kỳ vọng của Nhân dân về xây dựng bộ máy công vụ liêm chính, kiến tạo. |
https://tuyengiao.vn/