Nghiên cứu kỹ thuật trồng Bần không cánh (Sonneratia apetala Buch-Ham) góp phần phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng cửa sông ven biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
Việt Nam với bờ biển dài 3260 km, hàng năm chịu nhiều thiên tai. Những năm gần đây, thiên tai cực đoan như gió bão, nắng nóng, hạn hán, lạnh rét bất thường đã gây ra nhiều thiệt hại, là mối lo ngại cho các vùng sinh thái nhất là vùng cửa sông, ven biển. Một trong những giải pháp phòng chống thiên tai gây ra là phục hồi, gây trồng và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn (RNM) đã được thể hiện rõ trong Quyết định số 120/QĐ-TTg ngày 22/01/2015 và Nghị định số 119/2016/NĐ-CP ngày 23/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ.

Hệ sinh thái RNM nước ta có 37 loài cây ngập mặn thực thụ phân bố (Tổng quan RNM Việt Nam, 2005), trong đó RNM vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có mùa hè nắng nóng và gió bão, mùa đông lạnh rét nên cấu trúc tổ thành đơn giản, kích thước cây nhỏ, sinh khối thấp, hiệu quả phòng hộ chưa cao, số loài cây ngập mặn thực thụ hiện có khoảng hơn 10 loài, chủ yếu là Bần chua, Đước vòi, Vẹt dù, Trang... Do đó, việc bổ sung loài cây trồng có khả năng khắc phục những hạn chế nêu trên ở vùng cửa sông, ven biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ là rất cần thiết.
Khoảng 20 năm trước đây, Bần không cánh (Sonneratia apetala Buch-Ham) được Hội chữ thập đỏ và Trung tâm Nghiên cứu hệ Sinh thái rừng ngập mặn (MERC) dẫn giống từ Myanma về trồng thử nghiệm ở vùng cửa sông, ven biển của tỉnh Nam Định, Thái Bình. Kết quả bước đầu cho thấy Bần không cánh sinh trưởng phát triển nhanh, khả năng chịu lạnh cao hơn Bần chua (Sonneratia caseolaris).
Theo IUCN (2010), Bần không cánh phân bố tự nhiên ở Bangladesh, Ấn Độ và Myanma, đã dẫn giống trồng RNM thành công ở Trung Quốc, là loài cây sinh trưởng nhanh, sức sống rất khỏe, có khả năng chịu lạnh rất tốt, cây cao đến 20 m.
Với những đặc điểm ưu thế trên, nhưng kể từ khi Bần không cánh được dẫn giống về gây trồng ở nước ta cho đến nay, hiện chỉ có một vài công trình nghiên cứu nhỏ có tính chất bước đầu, với thời gian nghiên cứu ngắn, địa điểm thí nghiệm ít, diện tích rất nhỏ, nên việc xác định tính chống chịu với điều kiện bất lợi như nắng nóng, lạnh rét, gió bão, độ mặn của nước biển, đặc biệt là những nghiên cứu về chọn giống, nhân giống và khả năng gây trồng phát triển Bần không cánh ở vùng cửa sông, ven biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ chưa được nghiên cứu, đánh giá đầy đủ và toàn diện. Vì vậy, việc “Nghiên cứu kỹ thuật trồng Bần không cánh góp phần phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng cửa sông, ven biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ” do Chủ nhiệm đề tài Tiến sĩ Lê Văn Thành cùng nhóm nghiên cứu tại Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam với mục tiêu xác định được một số đặc điểm sinh lý, sinh thái liên quan đến khả năng phòng hộ chắn sóng của loài Bần không cánh (BKC); Xác định được kỹ thuật nhân giống và trồng rừng BKC ở vùng cửa sông, ven biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau:
- Bần không cánh (BKC) hiện trồng ở vùng ven biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, điều kiện gây trồng từ thuận lợi đến khó khăn: thể nền từ bùn mềm đến cát pha, khi đi lún < 5 - 35cm. Độ mặn nước biển từ thấp đến tương đối cao (7‰ -19‰). Ngập triều từ nông đến sâu. Độ mặn đất từ mặn ít đến mặn muối.
- Tại tỉnh Thái bình, bần không cánh và bần cánh (BC) sau 7-8 năm trồng hỗn giao ST của BKC cao hơn BC. BKC có khả năng gây trồng và sinh trưởng tốt ở nơi nằm sâu trong đất liền (3 km) như ở xã Giao Lạc, Giao Thủy, Nam Định, ngập triều nông, thời gian ngập trong ngày rất ít (<6h/ngày).
- Tại Thanh Hóa, sau 2 năm trồng ở xã Nga Tân và Hưng Lộc sinh trưởng D00 của bần cành lớn hơn bần không cành, ở Hưng Lộc diện tích của bần không cành lớn hơn bần cành, các chỉ tiêu sinh trưởng khác tương đương nhau.
- Tại Thừa Thiên Huế sau 2,5 năm trồng ở huyện Phú Vang, bần không cành, bần cành và Đước đôi có tỷ lệ sống cao (>90%), BKC cho sinh trưởng D00, Hvn và diện tích cao nhất, riêng Hdc thấp nhất.
- Cấu tạo giải phẫu lá bần không cành có độ dày lá trên cây 1-2 tuổi lớn nhất trung bình 594,04 µm, lá già tích muối nhiều giúp thải muối nên dày hơn lá non và lá bánh tẻ. Lá càng bị ngập nước, tích muối càng nhiều, độ dày lá càng lớn. Tỷ lệ mô khuyết/mô dậu của bần không cành lớn hơn bần cành, giúp bần không cành thích nghi cao hơn bần cành ở những nơi có điều kiện lập địa khó khăn (độ mặn, lạnh rét).
- Tỷ lệ dla/dlb lá cây bần không cành 7 tuổi cao nhất TB từ 2,95-3,46, thấp nhất ở cây 1-2 tuổi (2,24-2,96) cho thấy bần không cành là loài cây ưa sáng mạnh, có nhu cầu ánh sáng cao.
- Muối tan tổng số, Na+ và Cltrong lá cây BKC 7-8 tuổi > cây 2-3 tuổi, ở những nơi có độ mặn cao thành phần chủ yếu là Na+ và Clcác tuyến tiết muối càng mạnh.
- Bần không cành rụng lá, ra lá mới và nảy chồi quanh năm. Ra nụ tháng 4 - 7, ra hoa tháng 5 - 7, quả chín tháng 8 - 9. Các pha vật hậu của bần không cành tại các địa đểm chênh lệch nhau không đáng kể.
- Đã chọn được 46 cây mẹ/trội tại Tiền Hải, tỉnh Thái Bình ≥ 6 tuổi, sinh trưởng D00, Hvn, diện tích lớn hơn trung bình của lâm phần, Hdc nhỏ hơn hoặc bằng diện tích của lâm phần; góc phân cành lớn (≥ 450); số năm ra hoa kết quả ≥ 2 năm, cây mẹ có chất lượng trên mức trung bình.
Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (mã số 20779/2022) tại Cục Thông tin, Thống kê.
https://vista.gov.vn/vi/news/ket-qua-nghien-cuu-trien-khai/nghien-cuu-ky-thuat-trong-ban-khong-canh-sonneratia-apetala-buch-ham-gop-phan-phong-chong-thien-tai-va-ung-pho-voi-bien-doi-khi-hau-o-vung-cua-song-ven-bien-bac-bo-va-bac-trung-bo-11110.html