Cao chiết từ cây tầm bóp làm giảm phì đại tuyến tiền liệt trên chuột
Nghiên cứu về cây tầm bóp đã chứng minh sự đa dạng về tác dụng dược lý bao gồm chống nhiễm trùng, kháng viêm, điều hoà miễn dịch và kháng ung thư. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào được thực hiện về bệnh lý phì đại tuyến tiền liệt lành tính (PĐTTLLT). Do đó, nhóm nghiên cứu tại Đại học Y dược TP. Hồ Chí Minh đã khảo sát tác động ức chế 5-α reductase in vitro của các cao chiết từ cây tầm bóp.
Các tác giả đã tiến hành định danh dược liệu tầm bóp và mô tả về thực vật học; chiết xuất cao và khảo sát đặc điểm cao chiết; khảo sát tác động ức chế 5α-reductase in vitro của cao chiết. Kết quả cho thấy, tầm bóp là loại cây thân thảo sống hàng năm, nảy mầm từ hạt vào tháng 4 hoặc tháng 5, phát triển nhanh vào mùa hè và giảm dần sau khi ra hoa và đậu quả. Tầm bóp có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Nam Mỹ, ở Việt Nam được phân bố rộng khắp cả nước. Đặc điểm vi phẫu của bột rễ, lá, thân và hoa được kiểm tra bằng kính hiển vi, cho thấy sự hiện diện của tinh thể canxi oxalate dạng cát ở tất cả các bộ phận của cây. Lỗ khí và lông tiết được tìm thấy ở lá và thân. Các mảnh mạch xoắn ốc, hình lưới và hình thang được tìm thấy dưới dạng bột.
Về chiết xuất cao, từ 2 kg bột dược liệu của P. angulata, sau khi chiết ngấm kiệt bằng ethanol 96%, thu được 197,20 g cao toàn phần. Từ 60 g cao toàn phần, tiếp tục lắc phân bố với các dung môi khác nhau để thu được 21,69 g DCM (dichloromethan), 2,40 g EA (ethyl acetat) và 8,08 g các phân đoạn nBU (n-butanol). Các đặc tính của từng cao chiết/phân đoạn cũng được xác định. Kết quả định lượng cho thấy cao toàn phần và phân đoạn DCM chứa cả steroid và flavonoid, trong khi các phân đoạn EA và nBu chỉ chứa flavonoid. Phân đoạn EA có hàm lượng polyphenol và flavonoid cao nhất trong các cao chiết khảo sát.
Nhóm nghiên cứu đi đến kết luận, thành phần chính của dược liệu tầm bóp là alkaloid, tannin, flavonoid và steroid. Trong khi phân đoạn DCM dương tính rõ rệt với các phản ứng định tính steroid thì hàm lượng flavonoid cao nhất trong phân đoạn EA. Trong số các cao chiết và phân đoạn khảo sát, phân đoạn EA cho thấy tác dụng ức chế đáng kể đối với 5-α reductas.
PĐTTLLT đặc trưng bởi sự phì đại của các tuyến và mô liên kết trong tuyến tiền liệt. PĐTTLLT gây ra một số triệu chứng như kích thích bàng quang, tiểu nhiều lần, tiểu gấp và tiểu đêm làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Gần đây, một số thành phần từ dược liệu đã thu hút sự quan tâm của giới khoa học trong việc làm giảm các triệu chứng của PĐTTLLT như quả cây cọ (Serenoa repens, Sabal serrulata), hạt bí ngô (Cucurbita pepo), vỏ cây mận Châu Phi (Pygeum africanum), rễ cỏ sao Nam Phi (Hypoxis rooperi), rễ cây tầm ma (Urtica dioica), lúa mạch đen (Secale cereale)… Thành phần có hoạt tính sinh học của những loại cây này là phytosterol, acid béo, flavonoid, dầu thực vật và polyshaccharid.
Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy cao toàn phần từ toàn cây tầm bóp làm giảm phì đại tuyến tiền liệt trên trên chuột nhắt và có thể thúc đẩy định hướng các nghiên cứu sâu hơn về Physalis angulata trong điều trị PĐTTLLT và các chất chịu trách nhiệm cho những hoạt động này.