Tăng cường truy xuất nguồn gốc nông sản, đảm bảo an toàn, bảo vệ quyền lợi người dùng
Khi sức khỏe được người tiêu dùng thông minh đặt lên hàng đầu và yêu cầu về bảo vệ môi trường trở nên cấp thiết, tính minh bạch khi áp dụng truy xuất nguồn gốc của sản phẩm dần trở thành yếu tố không thể thiếu.
Theo Đại diện Tổ chức Nông lương Liên Hiệp quốc (FAO), tính thiết yếu trong minh bạch sản phẩm sẽ là yếu tố để nông sản, thực phẩm được lựa chọn. Trên mỗi sản phẩm được bán ra có mã truy xuất được in trên bao bì, khi người tiêu dùng muốn biết đầy đủ thông tin về món hàng đã mua, truy ngược dòng từ thành phẩm cuối cùng về nơi sản xuất ban đầu, rà soát từng công đoạn trong chế biến và phân phối có thể dùng mã đó để kiểm tra.
Theo đó, người tiêu dùng có thể gõ mã truy xuất trên trang web của sản phẩm để tìm thông tin; hoặc dùng điện thoại thông minh có cài đặt phần mềm truy xuất để quét lên mã truy xuất được in trên bao bì của sản phẩm. Không những vậy, xu hướng hiện nay là các nhà nhập khẩu trên thế giới luôn muốn biết nơi sản xuất và những nơi sản phẩm đi qua. Điều này càng thể hiện rõ hơn với những thị trường nhập khẩu nông sản từ các quốc gia khác; trong đó có Việt Nam.
Truy xuất nguồn gốc nông sản đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng. Ảnh minh họa
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT), tính đến nay, cả nước có 6.883 mã số vùng trồng xuất khẩu đã được cấp cho 25 sản phẩm (phân bố tại 54/63 tỉnh, thành phố) sang 11 thị trường; trong đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long có số lượng mã số vùng trồng lớn nhất cả nước với 3.975 mã (chiếm 57%) đang hoạt động.
Riêng Đồng Tháp có 2.469 mã số vùng trồng được cấp, lớn nhất cả nước, Tiền Giang có 528 mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói, Bến Tre có 84 mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói.
Tiền Giang được biết đến là vùng đất phong phú, đa dạng các sản phẩm nông sản. Những trái cây được biết đến là ngon nổi tiếng của vùng đất này phải kể đến thanh long, chôm chôm, sầu riêng... Với việc các sản phẩm nông sản của Tiền Giang được cấp mã số vùng trồng, dán tem truy xuất nguồn gốc, càng tăng thêm uy tín cho nông sản của địa phương này.
Theo ông Nguyễn Văn Mẫn - Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Tiền Giang, đến thời điểm này, toàn tỉnh Tiền Giang đã được cấp 528 mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói; trong đó, mã số vùng trồng được cấp sang thị trường Trung Quốc là 183, diện tích gần 19.151 ha, với 7 chủng loại cây trồng, gồm: Mít, thanh long, xoài, dưa hấu, chôm chôm, nhãn và sầu riêng. Tiền Giang có 307 mã số cơ sở đóng gói đã được cấp phục vụ xuất khẩu, cụ thể là thị trường Trung Quốc có 299 mã số, các thị trường khó tính có 8 mã số.
Để quản lý chặt mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói, Sở NNPTNT tỉnh Tiền Giang đã lập các đoàn kiểm tra liên ngành nhằm kiểm tra việc chấp hành quy định về sử dụng và duy trì các điều kiện, yêu cầu của mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói.
Bên cạnh đó, tỉnh này cũng đang triển khai xây dựng thí điểm phần mềm cơ sở dữ liệu quản lý vùng trồng sầu riêng tại một số địa phương trọng điểm. Phần mềm này sẽ thể hiện các thông tin của vùng trồng sầu riêng thành bản đồ, làm cơ sở nhân rộng bản đồ hóa toàn bộ vùng trồng sầu riêng và các cây trồng chủ lực của tỉnh.
Còn tại tỉnh Bến Tre, hiện có 41 vùng trồng được cấp 84 mã số. Một số loại nông sản đã xây dựng mã số vùng trồng như: dừa xiêm xanh, bưởi da xanh, chôm chôm, xoài, sầu riêng… đã được xuất khẩu sang châu Âu, Hoa Kỳ, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan và Trung Quốc; trong đó có 41 vùng trồng xuất khẩu, với 84 mã số đang hoạt động, diện tích hơn 671 ha. Bưởi da xanh có 23 vùng trồng gắn 51 mã số. Chôm chôm có 3 vùng trồng gắn 6 mã số. Xoài có 4 vùng trồng gắn 16 mã số. Sầu riêng có 10 vùng trồng gắn 10 mã số. Nhãn có 1 vùng trồng gắn 1 mã số.
Theo ông Võ Văn Nam, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Bến Tre, mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói như những tấm thẻ bài đảm bảo cho truy xuất nguồn gốc của các nông sản xuất khẩu. Do đó, Sở NNPTNT Bến Tre đã ban hành công văn về việc tăng cường quản lý mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói, nêu rõ vai trò của các bên có liên quan trong công tác quản lý; trong đó, các địa phương theo dõi tình hình sản xuất tại vùng trồng, thực hiện quản lý mã số vùng trồng tại địa bàn.
Đặc biệt, khi có phát sinh liên kết sản xuất tiêu thụ không ổn định hoặc các dấu hiệu không trung thực trong việc sử dụng mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói thì báo cáo về Sở NNPTNT Bến Tre thông qua Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh để phối hợp giải quyết.
Ông Đỗ Thanh Hiệp, Giám đốc Hợp tác xã thanh long Hòa Lệ, Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận chia sẻ, đến nay Bình Thuận đã có rất nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện hiệu quả việc xây dựng thương hiệu sản phẩm trên thị trường gắn với việc dán tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm như Hợp tác xã thanh long Hòa Lệ, các sản phẩm hải sản của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hải Nam, nước mắm Phan Thiết…
Có thể thấy, sản phẩm có dán tem truy xuất nguồn gốc sẽ góp phần bảo vệ được thương hiệu, nâng tầm giá trị của doanh nghiệp, hợp tác xã. Từ đó tăng tính cạnh tranh, kích thích người tiêu dùng mua hàng, tiết kiệm tối đa chi phí đầu tư. Đây cũng là nền tảng để xuất khẩu hàng hóa đi quốc tế, bảo vệ cộng đồng, tẩy chay hàng giả, hàng nhái ra khỏi thị trường Việt Nam. Việc áp dụng truy xuất nguồn gốc sản phẩm không chỉ mang lại lợi ích cho doanh nghiệp mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp và bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng. Đây là một hướng đi không thể phủ nhận trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và nhu cầu ngày càng cao của thị trường.
https://vietq.vn/