Chi tiết tin tin tức sự kiện - Sở Khoa học và Công nghệ

 

Nhiệt liệt chào mừng Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam và kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập Bộ Khoa học và Công nghệ: “Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo – Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai”
Tin tức - Sự kiện: Tin trong tỉnh

Ngày đăng: 24-01-2022

Tăng cường thông tin khoa học và công nghệ thúc đẩy chuyển giao tiến bộ khoa học, đổi mới sáng tạo

Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đã xác định hoạt động tuyên truyền, phổ biến KH&CN là một trong 6 giải pháp chủ yếu để phát triển KH&CN Việt Nam: “Đẩy mạnh hoạt động truyền thông và tuyên truyền sâu rộng trong xã hội, đặc biệt là trong các doanh nghiệp về chủ trương, chính sách, pháp luật về KH&CN, về vai trò động lực then chốt của KH&CN đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước nhằm nâng cao tinh thần tự lực, tự cường, sự đồng thuận và ủng hộ mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị đối với hoạt động khoa học và công nghệ; tạo không khí thi đua lao động sáng tạo, nghiên cứu, ứng dụng KH&CN trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; nâng cao tinh thần trách nhiệm của tổ chức, cá nhân hoạt động KH&CN đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.” (Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 – 2020, năm 2012, trang 18).
 

Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011-2020 cũng nhấn mạnh cần:  “Nhân rộng và tăng cường mô hình phổ biến kiến thức KH&CN  phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới tại các địa phương.” (Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, năm 2012, trang 15)
 

Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, của đời sống xã hội và đặc biệt là sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, truyền thông và yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thông tin KH&CN ngày càng được chuyên môn hóa nhiều hơn, sâu hơn về các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Hoạt động thông tin KH&CN góp phần quan trọng trong việc đưa KH&CN gần hơn với thực tiễn, nói một cách khác là thông tin KH&CN phải gắn kết có hiệu quả giữa nghiên cứu và ứng dụng. Thông tin KH&CN tiến hành đánh giá kết quả nghiên cứu và khi kết quả nghiên cứu đã hoàn tất thì thông tin KH&CN quay trở lại phổ biến kết quả của việc nghiên cứu khoa học đưa vào đời sống xã hội; dưới các hình thức và điều kiện cụ thể, đưa các kết quả nghiên cứu khoa học vào đời sống như công bố trên báo chí, xuất bản phẩm và tuyên truyền mô hình ứng dụng... giúp cho hoạt động KH&CN triển khai thành công các dự án, các đề tài nghiên cứu ứng dụng đến với người dân một cách có hiệu quả. 

Description: http://www.dostquangtri.gov.vn/Upload/Images/20220124-14012984.jpg
Công tác thông tin KH&CN đã tập trung tuyên truyền, phổ biến các quy trình kỹ thuật góp phần thúc đẩy chuyển giao tiến bộ khoa học và kỹ thuật đến người dân.
 

Đối với tỉnh Quảng trị, trong những năm qua, hoạt động thông tin truyền thông KH&CN trên địa bàn tỉnh đã được quan tâm và có những chuyển biến nhất định, góp phần tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách và các quy định của pháp luật về KH&CN đến với nhân dân; phục vụ quản lý nhà nước, phục vụ nghiên cứu triển khai, phục vụ sản xuất và đời sống. 
 

Hoạt động thông tin KH&CN đã tập trung tuyên truyền sâu rộng các kết quả nghiên cứu khoa học từ nhiệm vụ KH&CN cấp cơ sở đến cấp quốc gia. Trong 05 năm (2017 - 2021), Sở KH&CN đã thực hiện xuất bản 10.400 ấn phẩm các loại và Bản tin thông tin KH&CN dưới dạng điện tử 12 số/năm; gần 90 chuyên mục KH&CN trên Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh; 151 bài báo trên Báo Quảng Trị và hàng trăm tin, bài, phóng sự trên các Đài, Báo Trung ương; đã phối hợp với gần 20 cơ quan Báo, Đài Trung ương… để tuyên truyền về hoạt động, kết quả nghiên cứu đến với người dân và doanh ngiệp trong cả nước…

Description: http://www.dostquangtri.gov.vn/Upload/Images/20220124-14013932.jpg
Cán bộ Trung tâm Nghiên cứu, Ứng dụng và Thông tin KH&CN tác nghiệp tại hiện trường


Các chuyên mục, bài báo đã chú trọng tuyên truyền sâu, phố biến các quy trình kỹ thuật đầy đủ, cụ thể, dễ hiểu, dễ áp dụng đến người dân nhằm góp phần thúc đẩy chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật. Đặc biệt trong những năm gần đây đã có sự gắn kết, phối hợp chặt chẽ giữa công tác truyền thông địa phương với các cơ quan Báo, Đài khu vực và Trung ương nhằm giới thiệu rộng rãi hoạt động này hơn. Hoạt động truyền thông KHCN cũng đã lựa chọn những nội dụng trọng điểm để tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện. Tập trung tuyên truyền về quá trình triển khai thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy “về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước”, Nghị quyết số 31/2017/NQ-HĐND ngày 14/12/2017 của HĐND tỉnh về chính sách hỗ trợ ứng dụng và nhân rộng các kết quả khoa học và công nghệ trên địa bàn giai đoạn 2017-2025”; Đề án “Ứng dụng chế phẩm vi sinh vật trong sản xuất nông nghiệp giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị”… Tuyên truyền sâu rộng, thường xuyên về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo theo tinh thần Đề án hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia đến năm 2025  của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và Kế hoạch số 3690/KH-UBND ngày 14/08/2019 của UBND tỉnh Quảng Trị về “Hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đến năm 2025”. Đặc biệt đã đẩy mạnh truyền thông, phổ biến thông tin, kiến thức về hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, góp phần xây dựng tinh thần khởi nghiệp, văn hóa khởi nghiệp trong cộng đồng, bước đầu đã thu hút nhiều cá nhân, tổ chức trên địa bàn tỉnh tham gia, khơi dậy và lan tỏa sự mạnh mẽ hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trên địa bàn tỉnh.
 

Một trong những hoạt động quan trọng phục vụ cho hoạt động tuyên truyền, phổ biến kiến thức KH&CN là việc phát triển nguồn tin. Nhiệm vụ:“Xây dựng Hệ thống cơ sở dữ liệu nguồn nhân lực Khoa học và Công nghệ trên địa bàn tỉnh Quảng Trị” đã tích hợp cơ sở dữ liệu lên Cổng thông tin điện tử KH&CN của tỉnh đã hỗ trợ tối đa cho công tác tra cứu thông tin về KH&CN, bao gồm: cơ sở dữ liệu kết quả nghiên cứu KH&CN; cơ sở dữ liệu Hỏi đáp khoa học và kỹ thuật; cơ sở dữ liệu tiêu chuẩn, quy chuẩn; cơ sở dữ liệu thông tin KH&CN phục vụ nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện đúng quy định về xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng, duy trì và phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia về KH&CN theo Thông tư 10/2017/TT-BKHCN ngày 28/6/2017 của Bộ KH&CN. Công tác thông tin KH&CN kết hợp chặt chẽ với bộ phận nghiên cứu triển khai tiến bộ KH&CN góp phần phổ biến nhiều hơn, rộng hơn những sự kiện, thành tựu, tiến bộ KH&CN, đặc biệt là các chương trình, đề tài, dự án KH&CN đang triển khai trên địa bàn tỉnh.
 

Từ năm 2011, Trung tâm Thông tin và thống kê KH&CN tỉnh được giao thực hiện dự án “Xây dựng mô hình cung cấp thông tin KHCN về nông thôn và miền núi tỉnh Quảng Trị”, là một trong những dự án lớn về công tác truyền thông KH&CN về nông thôn. Các điểm cung cấp thông tin KH&CN đều được đầu tư về trang thiết bị, kết nối internet và được thường xuyên cập nhật thông tin KH&CN thông qua thư viện điện tử, in ấn tài liệu phổ biến kiến thức cho nhân dân trên địa bàn... Sự ra đời của thư viện điện tử tuyến xã đã giúp người dân tiếp cận với những thông tin KH&CN phục vụ hoạt động sản xuất và đời sống, góp phần thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế- xã hội của địa phương theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, thiết lập cơ chế trao đổi và cập nhật thông tin hai chiều giữa cơ sở, địa phương và trung ương; tăng cường nguồn tin số hóa phục vụ phát triển KT- XH; rút ngắn thời gian áp dụng các thành tựu KH&CN vào thực tiễn sản xuất... Thông qua các điểm thông tin KH&CN, nông dân đã có điều kiện để tìm hiểu các kiến thức về KH&CN để ứng dụng vào sản xuất và đời sống. Tại các điểm thông tin, Trung tâm Thông tin và thống kê KH&CN tỉnh đã cung cấp rất nhiều tài liệu điện tử và tài liệu giấy đáp ứng đủ nhu cầu tìm hiểu thông tin KH&CN của người dân. 
 

Tuy nhiên, hoạt động thông tin khoa học công nghệ trong thực tiễn vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế. 
 

Thứ nhất, hoạt động thông tin KH&CN trên địa bàn tỉnh chưa đồng bộ. Thông tin khoa học công nghệ có đặc thù riêng do xuất phát từ các nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Trên thực tế, công tác thông tin khoa học công nghệ chưa được sự quan tâm đúng mức của các tổ chức, cá nhân, do vậy, nhiều đề tài, dự án nghiên cứu chưa chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền. Nhất là sự phối hợp giữa tác giả, chủ nhiệm đề tài với bộ phận truyền thông KH&CN để phổ biến, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
 

Thứ hai, tiềm lực thông tin KH&CN vẫn chưa được đầu tư ngang tầm nhiệm vụ, thiếu sự tập trung, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phục vụ cho nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Về trang thiết bị, hệ thống cơ sở dữ liệu về KH&CN còn thiếu về số lượng, chưa đồng bộ về chất lượng. Đầu tư cho lĩnh vực KH&CN nói chung và thông tin KH&CN nói riêng chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
 

Hiện nay, so với các tỉnh trong khu vực, Quảng Trị đã có sự quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức làm việc ở bộ phận thông tin khoa học công nghệ thuộc Trung tâm Nghiên cứu, ứng dụng và Thông tin thống kế khoa học công nghệ. Tuy nhiên, điều kiện làm việc còn nhiều thiếu thốn, đội ngũ làm công tác này chưa được đào tạo và đào tạo lại bài bản. Hầu hết còn dựa vào kinh nghiệm và tự nghiên cứu, học hỏi. Do đó chất lượng, hiệu quả của công tác thông tin khoa học công nghệ chưa cao, chưa tạo được sự quan tâm sâu sắc của người dân và nhất là hoạt động truyền thông trong việc chuyển giao, đưa kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn hiệu quả chưa cao.
 

Thứ ba, chất lượng, nội dung tuyên truyền chưa có sức hấp dân, lôi cuốn. Các ấn phẩm thông tin tuyên truyền về KH&CN còn thiếu sản phẩm có chất lượng cao. Nhiều thông tin KH&CN thiết thực phục vụ cho nhân dân, tuy có giá trị khoa học nhưng lại khó có khả năng áp dụng vào thực tiễn sản xuất, các doanh nghiệp của tỉnh. Thông tin KH&CN chưa trở thành nhu cầu không thể thiếu của doanh nghiệp và người dân, nhất là quá trình tìm hiểu công nghệ trước khi triển khai các dự án sản xuất, kinh doanh trên địa bàn.
 

Nguyên nhân của những hạn chế, trước hết, do bản thân thông tin khoa học công nghệ thường khô khan, khó tiếp thu. Nhu cầu khai thác thông tin KH&CN của các tổ chức, cá nhân chưa trở thành thói quen. Hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin khoa học công nghệ thiếu đồng bộ, doanh nghiệp KH&CN phát triển chậm, thị trường KH&CN chưa hình thành, do đó chưa tạo ra lợi thế so với các nội dung thông tin khác. Mặt khác, công tác đào tạo, bồi dưỡng, chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác thông tin KH&CN chưa được thực hiện đúng mức.
 

Để phát huy hơn nữa vai trò và hiệu quả công tác thông tin khoa học công nghệ, nhất là trong thực hiện chủ động tham gia cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần sự quan tâm thực hiện đồng bộ nhiều, trong đó ưu tiên các nội dung sau:
 

Một là, tham mưu xây dựng và ban hành các văn bản chỉ đạo về hoạt động thông tin KH&CN; hướng dẫn các quy trình, quy phạm, tiêu chuẩn trong lĩnh vực thông tin KH&CN. Xây dựng các chương trình, đề án phát triển thông tin KH&CN trọng điểm của tỉnh. Bên cạnh tiếp tục duy trì các mô hình phổ biến thông tin KH&CN hiệu quả hiện có thì các chương trình, đề án phát triển thông tin KH&CN trọng điểm của tỉnh đến cần tập trung vào các mục tiêu: Xác lập một hệ thống kiến thức KH&CN phù hợp với dân trí, đáp ứng yêu cầu bức thiết của sản xuất và đời sống. Ða dạng hóa hình thức thông tin với sự tham gia của hệ thống chính trị, chú trọng cấp huyện và cơ sở. 
 

Hai là, tăng cường tiềm lực thông tin KH&CN. Xây dựng nguồn lực thông tin đầy đủ về số lượng, phong phú về nội dung và đa dạng về hình thức. Các cơ quan thông tin KH&CN phải chú trọng đến chiến lược tạo nguồn, đặc biệt là nguồn tin điện tử và công tác bổ sung tư liệu theo hướng kết hợp giữa sở hữu nguồn lực tại chổ và tiếp cận với tới các nguồn của nơi khác. Trong đó, Trung tâm Nghiên cứu, ứng dụng và Thông tin KH&CN, đơn vị được UBND tỉnh chỉ định thực hiện chức năng đầu mối về thông tin KH&CN phải đi đầu trong việc tích hợp hệ thống CSDL KH&CN địa phương và tổ chức truyền thông phổ biến tiến bộ khoa học phục vụ nhiệm vụ kinh tế - xã hội, hoạt động theo Nghị định số 54/2016/NĐ-CP và Nghị định số 11/2014/NĐ-CP về hoạt động thông tin KH&CN. Bố trí kinh phí sự nghiệp KH&CN hàng năm để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin KH&CN và phát triển nguồn lực thông tin. Đào tạo, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực thông tin KH&CN; Có cơ chế thu hút, đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin KH&CN; Công tác nghiên cứu nhu cầu tin phải được tiến hành thường xuyên nhằm mục đích phát hiện những nhu cầu thông tin cơ bản, những yếu tố ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển nhu cầu thông tin. Trên cơ sở đó xây dựng một nguồn lực thông tin, hệ thống các sản phẩm và dịch vụ thông tin phù hợp, đúng hướng và hiệu quả. 
 

Thứ ba, chú trọng phát triển công tác thông tin phân tích, thông tin phục vụ quản lý, phục vụ phát triển KT-XH. Công tác thông tin KH&CN phục vụ lãnh đạo và quản lý cần được hoàn thiện, thay đổi về chất; đặc biệt cần chú ý phát triển thông tin phân tích, tổng hợp, cảnh báo công nghệ, nghiên cứu thị trường, thẩm định công nghệ.
 

Đẩy mạnh công tác thông tin KH&CN phục vụ phát triển thị trường công nghệ và thông tin phục vụ hoạt động xúc tiến và phát triển thị trường. Công tác thông tin hỗ trợ phát triển thị trường công nghệ cần hướng vào việc thông tin rộng rãi các sản phẩm KH&CN được mua bán thuận lợi trên thị trường, tổ chức các Chợ công nghệ và thiết bị, phát triển sàn giao dịch công nghệ trên mạng, nâng cao nhận thức của công chúng và phổ biến kiến thức KH&CN trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phát triển sàn giao dịch công nghệ, trung tâm chuyển giao công nghệ cũng là một hướng hoạt động thông tin KH&CN tham gia vào phát triển thị trường công nghệ. Phát triển dịch vụ thông tin KH&CN phục vụ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hình thành và phát triển Mạng thông tin KH&CN phục vụ doanh nghiệp.
 

 Đẩy mạnh công tác thông tin KH&CN phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp, phát triển nông thôn. Phổ biến tri thức KH&CN, thúc đẩy ứng dụng KH&CN vào sản xuất nông nghiệp là một trọng tâm của truyền thông khoa học công nghệ. Xây dựng và nhân rộng mô hình cung cấp thông tin KH&CN tuyến huyện, xã; hình thành và phát triển Mạng thông tin KH&CN nông thôn, miền núi; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong phổ biến tri thức KH&CN đến vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
 

Thứ tư, tăng cường năng lực và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin, báo chí. Phát triển các hình thức thông tin KH&CN theo hướng đa dạng và sát cơ sở: Các Đặc san KH&CN, Bản tin Thông tin KH&CN... cần được tăng cường số lượng phát hành, tăng số chuyên đề về KH&CN phục vụ “tam nông” và được phát hành đến tận thôn/bản để phục vụ trực tiếp cho dân. Chuyên mục KHCN trên báo, Đài, trang thông tin điện tử cần xây dựng nội dung phù hợp, ưu tiên nhiều thời lượng để cung cấp thông tin, kiến thức khoa học công nghệ cho vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
 

Thứ năm, đẩy mạnh phát triển và khai thác các mạng thông tin KH&CN. 
 

Phát triển hệ thống thông tin KH&CN tỉnh, nâng cao năng lực của trang mạng KHCN tỉnh để thực sự trở thành trung tâm liên kết mạng lưới tổ chức dịch vụ thông tin KH&CN; Chú trọng phát triển thư viện điện tử, cổng giao tiếp điện tử và website thông tin KH&CN. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về các kết quả nghiên cứu khoa học trên các lĩnh vực, tích hợp và hỗ trợ người dùng thuận tiện trong việc tra cứu, tìm hiểu thông tin. Tham gia tích cực vào việc xây dựng và phát triển các Trung tâm tích hợp dữ liệu của các Bộ, ngành, địa phương.
 

Hoạt động truyền thông KH&CN có vai trò hết sức quan trọng  trong việc thúc đẩy phát triển KH&CN, đổi mới sáng tạo, góp phần thúc đẩy thị trường công nghệ, là một trong những nhiệm vụ quan trọng để gắn kết cộng đồng với đội ngũ cán bộ khoa học. Để hoạt động này ngày càng phát huy hơn nữa vai trò là cầu nối giữa nghiên cứu với thực tiễn sản xuất, kinh doanh cần có sự quan tâm đồng bộ của các cấp lãnh đạo và sự phối hợp, quan tâm của các ban, ngành, của cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Cần có cơ chế và các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động này đầy đủ, cụ thể hơn nữa, ví dụ quy định bắt buộc việc nghiên cứu các đề tài, dự án nhất thiết phải dành kinh phí nhất định cho công tác thông tin và tuyên truyền về quá trình thực hiện và kết quả đạt được. Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị chuyên dụng cho hoạt động thông tin khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ những người làm thông tin khoa học và công nghệ có đủ năng lực chuyên môn và tinh thông nghiệp vụ để thực hiện các chương trình thông tin khoa học công nghệ. Lựa chọn và xây dựng những nội dung và phương thức tuyên tuyền, phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn cụ thể. Thực hiện chuyển tải thông tin khoa học công nghệ đến tận người dân và doanh nghiệp. 
 

Hy vọng, với những quyết sách và chủ trương lớn về phát triển KH&CN, sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo Tỉnh, lãnh đạo ngành, sự nỗ lực, năng động hơn nữa của những cán bộ làm truyền thông KH&CN của  tỉnh, công tác truyền thông sẽ đưa KH&CN thấm vào xã hội một cách tự nhiên, đưa KH&CN gần gũi với người dân hơn nữa, để từ đó các tiến bộ KH&CN sẽ được ứng dụng rộng rãi, đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của quê hương, đất nước./.

Nguyễn Hữu Thắng - Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ

LỊCH CÔNG TÁC TUẦN

CHUYÊN MỤC KH&CN SỐ 5-2016

Thống kê truy cập
Số người online: 18
Hôm nay: 2548
Tổng lượt truy cập: 2.894.824
© CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ QUẢNG TRỊ
Chịu trách nhiệm: Trần Ngọc Lân, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ. Địa chỉ: 204 Hùng Vương, Đông Hà; ĐT: 0233.3550 382.