Chi tiết tin tin tức sự kiện - Sở Khoa học và Công nghệ

 

Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo – Khơi dậy khát vọng kiến tạo tương lai
Tin tức - Sự kiện: Tin thế giới

Ngày đăng: 17-07-2023

Xác định được bệnh trầm cảm mới có thể thay đổi phương pháp chẩn đoán và điều trị

Lần đầu tiên, các nhà khoa học đã xác định được một loại trầm cảm mới có liên quan đến rối loạn điều hòa nhận thức rõ rệt hơn và những phương pháp điều trị hiện tại không giúp giảm các triệu chứng này.

Nghiên cứu do một nhóm chuyên gia tại Stanford Medicine dẫn đầu đã sử dụng các cuộc khảo sát, kiểm tra và hình ảnh não bộ để lập biểu đồ suy giảm nhận thức, được đặc trưng bởi các hành vi như khó lập kế hoạch trước, thiếu tự chủ, kém tập trung và các vấn đề về chức năng điều hành khác.

Mặc dù những khó khăn về chức năng điều hành đã được biết đến là một yếu tố gây ra chứng rối loạn trầm cảm nghiêm trọng trong một thời gian, nhưng các nhà khoa học lập luận rằng đối với khoảng hơn 27% người mắc bệnh, nó là vấn đề chi phối bởi hầu hết các loại thuốc hiện tại không nhắm đến. Dù là thiểu số, nhưng nó vẫn chiếm khoảng năm triệu người bị trầm cảm ở Hoa Kỳ.

Leanne Williams, giáo sư tâm thần học và khoa học hành vi, tác giả chính của nghiên cứu cho biết: “Trầm cảm biểu hiện theo các cách khác nhau ở những người khác nhau, nhưng việc tìm ra những điểm chung - giống như hồ sơ tương tự về chức năng não - sẽ giúp các chuyên gia y tế điều trị hiệu quả cho những người mắc bệnh bằng cách cá nhân hóa việc chăm sóc điều trị”.

Thông thường, thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) được kê đơn, nhưng chúng ít hiệu quả hơn trong việc điều trị rối loạn chức năng nhận thức.

Đối với nghiên cứu này, 1.008 người trưởng thành mắc chứng rối loạn trầm cảm nặng chưa được điều trị đã được cho dùng một trong ba loại thuốc chống trầm cảm phổ biến - escitalopram (hay còn gọi là Lexapro) và sertraline (Zoloft), hoạt động trên serotonin và venlafaxine-XR (Effexor), hoạt động trên cả serotonin và norepinephrine. Sau 8 tuần, 712 người tham gia đã hoàn thành nghiên cứu.

Trước và sau đó, những người tham gia đã có một cuộc khảo sát do bác sĩ lâm sàng quản lý và tự đánh giá để đánh giá các mức độ triệu chứng khác nhau, cộng với các hành vi như thay đổi giấc ngủ hoặc ăn uống và các tác động xã hội và cuộc sống công việc. Họ cũng phải trải qua các bài kiểm tra nhận thức đo lường chức năng não như trí nhớ làm việc, tốc độ ra quyết định và sự tập trung.

Thêm vào đó, 96 người trong số những người tham gia này đã được quét não bằng hình ảnh cộng hưởng từ chức năng (fMRI), trong thời gian thử nghiệm phản ứng sẽ cho phép các nhà khoa học quan sát hoạt động của não của họ so sánh với những người không bị trầm cảm.

Sau tám tuần, nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng 27% người tham gia bị suy giảm nhận thức nghiêm trọng hơn và giảm hoạt động ở các vùng não trước cụ thể - cụ thể là vùng vỏ não trước trán và vùng vành đai phía trước lưng. Họ cũng cho thấy sự cải thiện ít nhất là SSRIs.

Tiến sĩ Laura Hack, phó giáo sư về tâm thần học và khoa học hành vi, tác giả chính của nghiên cứu cho biết: “Nghiên cứu này rất quan trọng vì các bác sĩ tâm thần có ít công cụ đo lường mức độ trầm cảm hỗ trợ đưa ra quyết định điều trị chính xác. Chủ yếu là thực hiện các biện pháp quan sát và tự báo cáo. Hình ảnh khi thực hiện các nhiệm vụ nhận thức là điều khá mới lạ trong các nghiên cứu điều trị trầm cảm”

Từ đó, các nhà nghiên cứu hy vọng có thể phát triển các xét nghiệm để phát hiện ra sự rối loạn điều hòa này và thay đổi phương pháp điều trị để phù hợp hơn với loại rối loạn trầm cảm chủ yếu này.

Williams nói: “Một trong những thách thức lớn là tìm ra một cách mới để giải quyết quy trình thử và sai (a trial-and-error process) hiện tại để nhiều người có thể khỏi bệnh sớm hơn. Đưa vào các biện pháp nhận thức khách quan như hình ảnh này sẽ đảm bảo rằng chúng tôi không sử dụng cùng một phương pháp điều trị cho mọi bệnh nhân”.

Williams và Hack hy vọng sẽ thực hiện các nghiên cứu sâu hơn về những người có kiểu sinh học nhận thức này, sử dụng các phương pháp điều trị khác nhau như kích thích từ xuyên sọ (TMS) và liệu pháp hành vi nhận thức (CBT), cũng như các loại thuốc khác như guanfacine, thường liên quan nhiều đến chứng rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD).

Không có gì đáng ngạc nhiên, những vùng não tương tự được xác định trong nghiên cứu này cũng là những vùng bị ảnh hưởng bởi ADHD và chức năng điều hành kém có liên quan đến nó.

Tôi thường xuyên chứng kiến sự đau khổ, mất hy vọng và gia tăng ý định tự tử xảy ra khi mọi người trải qua quá trình thử và sai của chúng tôi. Đó là bởi vì chúng tôi bắt đầu với các loại thuốc có cơ chế hoạt động giống như nhau đối với mọi người bị trầm cảm, mặc dù bệnh trầm cảm khá không đồng nhất. Tôi nghĩ nghiên cứu này có thể giúp thay đổi phương pháp điều trị cho họ”, Hack nói.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open gần đây.

https://vista.gov.vn/

LỊCH CÔNG TÁC TUẦN

CHUYÊN MỤC KH&CN SỐ 5-2016

Thống kê truy cập
Số người online: 86
Hôm nay: 8834
Tổng lượt truy cập: 3.275.092
© CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ QUẢNG TRỊ
Chịu trách nhiệm: Trần Ngọc Lân, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ. Địa chỉ: 204 Hùng Vương, Đông Hà; ĐT: 0233.3550 382.